Thanh toán di động, xu hướng tương lai

Trong những năm gần đây, thị trường di động toàn cầu đã có những bước phát triển đột phá, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi, như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines, Việt Nam, Indonesia … Với sự gia tăng số lượng điện thoại. Đến năm 2012, lưu lượng truy cập dự kiến ​​sẽ đạt 5 tỷ (Datamonitor 2008), và Mobile Commerce sẽ trở thành một lựa chọn không thể thiếu. Năm 2009, chỉ riêng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được dự báo sẽ chiếm 1/3 tổng thương mại di động toàn cầu (ước tính khoảng 80 tỷ USD).

Hiện tại, có ba chế độ trên thế giới. Mô hình hiện thực hóa chính của thương mại di động, tất cả đều có điểm chung là cho phép người dùng thực hiện các giao dịch và thanh toán qua điện thoại di động mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, vai trò của những người tham gia trong các mô hình này là khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng kinh tế – xã hội của từng quốc gia / vùng miền, cơ sở hạ tầng, chính sách quản lý, thói quen tiêu dùng … -Bảng dự báo doanh thu thương mại di động. (Nguồn: Frost & Sullivan) -Mô hình do ngân hàng lãnh đạo – Mô hình này phổ biến ở các nước có dịch vụ ngân hàng phát triển cao và hầu hết mọi người đều có tài khoản ngân hàng, chẳng hạn như ở Anh, Hoa Kỳ, Canada … … Các ngân hàng đang tạo ra các ứng dụng cho phép khách hàng sử dụng điện thoại di động để thực hiện giao dịch và thanh toán trên tài khoản khách hàng của họ. Mô hình này có thể hiểu là ngân hàng di động.

Ngoài các kênh giao dịch ngân hàng truyền thống trên quầy giao dịch hoặc ATM, ngân hàng di động cũng đã xuất hiện. Quả thực, nó đã mang đến cho khách hàng một phương thức giao dịch thuận tiện. Khách hàng không phải đến ngân hàng mà vẫn có thể giao dịch mọi lúc, mọi nơi. Các giao dịch có thể được thực hiện thông qua ngân hàng di động bao gồm tìm kiếm thông tin tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản ngân hàng, thanh toán hóa đơn, thanh toán dịch vụ … vì tất cả các giao dịch thanh toán đều dựa trên tài khoản. Tài khoản ngân hàng phải được bảo mật cao.

Điểm yếu của mô hình này là đối với các nước đang phát triển với 1 tỷ USD, khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng trước khi sử dụng dịch vụ. Nếu tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ ngân hàng ít thì đây là mô hình khó mở rộng.

Mô hình dựa vào nhà khai thác

Trong mô hình này, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động chủ động cung cấp dịch vụ thanh toán cho các thuê bao sử dụng dịch vụ của họ. Mô hình này được phát triển đặc biệt ở các thị trường mới nổi và có các đặc điểm sau:

– Phần lớn dân số không thể sử dụng dịch vụ ngân hàng.

– Không có thói quen sử dụng các phương thức ngân hàng. Sự tiện lợi của thanh toán không dùng tiền mặt .—— Cộng đồng sử dụng điện thoại di động lớn .—— Nhu cầu chuyển tiền cao, thanh toán ở khu vực dân cư thấp .—— Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng chỉ cần đăng ký với nhà mạng, không nhất thiết phải vào Ngân hàng có tài khoản. Sau khi đăng ký dịch vụ, khách hàng sẽ nhận được tài khoản dưới dạng ví điện tử, số tài khoản chính là số điện thoại di động của mình. Người dùng có thể nạp tiền vào ví bằng các cách sau: nạp tại đại lý của công ty viễn thông, nạp qua thẻ cào (do công ty viễn thông phát hành) hoặc chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng … bạn có thể thực hiện các giao dịch như chuyển tiền cho người khác. Ví điện tử (đặt hàng qua điện thoại di động), thanh toán hàng hóa dịch vụ, rút ​​tiền từ ví điện tử … – Ưu điểm của loại hình dịch vụ này là đơn giản, thiết thực (khách hàng không cần mở tài khoản ngân hàng), giao dịch nhanh chóng (gửi SMS) Thời gian tính toán thời gian giao dịch) và chi phí thấp (tùy thuộc vào phí SMS của nhà mạng). -Một ví dụ nổi bật về sự phát triển mô hình này là dịch vụ M-PESA ở Kenya. Đây là dịch vụ được hợp tác phát triển bởi hai công ty viễn thông lớn ở Kenya, Safaricom và Vodafone, nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính cho người dùng Safaricom ở Kenya. Cho đến nay đã có hơn 7 triệu khách hàng cố định và lượng giao dịch trung bình hàng ngày là 2 triệu, việc chuyển tiền giữa những người dùng di động đã trở nên rất phổ biến trong đời sống của người dân. Kenya. Mô hình M-PESA đã và đang tiếp tục được nhân rộng ở Tanzania, Afghanistan và các nước khác …

Mặc dù mô hình do nhà mạng đứng đầu có những ưu điểm như trên nhưng do dịch vụ do các công ty viễn thông triển khai nên quản lý phải trả phí, kinh nghiệm quản lý rủi ro không thể bằng ngân hàng . Ngoài ra, mỗi quốc gia có những quy định và chính sách riêngVề thanh toán, nhìn chung, các nhà quản lý vẫn tỏ ra thận trọng khi triển khai mô hình này.

Mô hình Hợp tác Ngân hàng – Viễn thông (Mô hình Đối tác)

Trong mô hình này, các ngân hàng, công ty viễn thông và nhà cung cấp giải pháp phối hợp với nhau để cung cấp các sản phẩm thanh toán nhằm đảm bảo sự thuận tiện của người dùng di động và được sử dụng rộng rãi , Đồng thời duy trì quản lý tài chính chặt chẽ của ngành ngân hàng.

Theo mô hình này, ngân hàng sẽ đóng vai trò quản lý nguồn vốn và xử lý các giao dịch quyết toán, trong khi quản lý rủi ro, công ty di động chịu trách nhiệm kinh doanh, giao dịch trực tiếp với khách hàng, cửa hàng bán lẻ và dịch vụ khách hàng.

Theo dự đoán của Hiệp hội GSM thế giới, đến năm 2012, sẽ có 1,2 tỷ người trên thế giới có điện thoại di động mà không có tài khoản ngân hàng, chủ yếu ở các nước đang phát triển ở Châu Á, Nam Mỹ và Châu Phi. Trên thị trường nói trên, phương thức hợp tác giữa ngân hàng và viễn thông là sự kết hợp những ưu điểm của hai phương thức trên, và vì những ưu điểm mà nó mang lại nên đã trở thành xu hướng chung:

– Có thể làm giải pháp thanh toán với đa số khách hàng của công ty viễn thông Giải pháp là chuyển dịch vụ mà khách hàng chưa từng sử dụng sang dịch vụ tài khoản ngân hàng .—— Công ty viễn thông cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tài chính bổ sung, được ngân hàng hỗ trợ về giải pháp tài chính, khả năng quản lý giao dịch và giảm thiểu rủi ro.

– Khách hàng có thêm kênh thanh toán an toàn, tiện lợi và chi phí thấp hơn so với giao dịch ngân hàng truyền thống.

– Nhà cung cấp giải pháp hỗ trợ các ngân hàng và công ty viễn thông về kết nối hệ thống, xử lý giao dịch và hỗ trợ nghiệp vụ, giảm đầu tư xã hội. Các cơ quan chức năng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước và sự tham gia của ngân hàng thông qua các quy định áp dụng hệ thống. Về mặt cung cấp dịch vụ.

Với dân số hơn 80 triệu người, chỉ có khoảng 12 triệu người có tài khoản ngân hàng (tương đương 15% dân số) và tỷ lệ bao phủ ngân hàng cá nhân của họ rất thấp. Hiện cả nước có khoảng 17 triệu chủ thẻ quốc tế và nội địa, nhưng thanh toán bằng tiền mặt vẫn đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch bán lẻ. Người dân và các công ty cung cấp hàng hóa, dịch vụ chưa quen với việc sử dụng thẻ ngân hàng để thanh toán nên việc thanh toán bằng thẻ qua các điểm bán hàng vẫn còn một số bất lợi.

Tại Việt Nam, có 7 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động đang hoạt động phủ sóng trên toàn quốc. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, số thuê bao di động của Việt Nam trong tháng 11 đạt 80 triệu thuê bao, bình quân mỗi người có một thuê bao di động. Việc sử dụng điện thoại di động không chỉ phổ biến ở giới trẻ hay khu vực thành thị mà còn ở mọi đối tượng. Có thể nói, Việt Nam là thị trường tận dụng được tiềm năng rất lớn của dịch vụ thanh toán di động.

Hơn 50 ngân hàng đang kinh doanh ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam và tham gia vào lĩnh vực này. Các ngân hàng cạnh tranh gay gắt bằng cách liên tục cải tiến và tung ra các sản phẩm, dịch vụ mới trong đó có sản phẩm ngân hàng di động (mô hình do ngân hàng dẫn đầu). Tuy nhiên, các sản phẩm do ngân hàng cung cấp chỉ dừng lại ở một số chức năng nhất định, chưa thể đáp ứng hết nhu cầu thanh toán của khách hàng. Cùng với đó, nhiều sản phẩm ví điện tử đã ra đời nhưng chỉ hỗ trợ giao dịch thanh toán qua Internet, còn thị trường thanh toán di động vẫn còn rộng mở.

Trong trường hợp này, đề xuất cung cấp giải pháp thanh toán di động không qua ngân hàng cho những khách hàng không có tài khoản ngân hàng. Một tài khoản ngân hàng là điều cần thiết. Điều này sẽ giúp tạo ra các ứng dụng thanh toán tiện lợi cho khách hàng, từ đó mang lại lợi ích to lớn cho các nhà cung cấp dịch vụ di động, đồng thời góp phần thúc đẩy xu hướng không dùng tiền mặt, giảm chi phí xã hội và góp phần phát triển kinh tế.

(Nguồn: Công ty Cổ phần Dịch vụ Thẻ Smartlink)

Leave a comment

trang web chính thức của bet365 tại Việt Nam_Có phiên bản tiếng Việt của bet365 không?_link vào bet365